Cán bộ Huyện đoàn Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Ninh.
Cán bộ Huyện đoàn Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Ninh.
Trong thông cáo phát chiều 3/4, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho biết tại kỳ họp 39 (ngày 2-3/4), Ủy ban cũng đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật Ban cán sự đảng Bộ Lao động Thương binh Xã hội các nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021 và ông Huỳnh Văn Tí, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban cán sự đảng, Thứ trưởng Lao động Thương binh Xã hội.
Cơ quan Kiểm tra Trung ương cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với ông Nguyễn Hồng Minh, nguyên Bí thư Đảng ủy, Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp; cảnh cáo Đảng ủy Tổng cục Dạy nghề nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng ủy Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp nhiệm kỳ 2015-2020 và các ông Nguyễn Ngọc Phi - Thứ trưởng, Dương Đức Lân - Tổng cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp, Phạm Quang Phụng - Vụ trưởng Kế hoạch Tài chính.
Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Lao động Thương binh Xã hội nhiệm kỳ 2015-2020 và ông Trương Anh Dũng, Bí thư Đảng ủy, Tổng cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp bị khiển trách.
Tại kỳ họp 37 đầu tháng 3, Ủy ban Kiểm tra Trung ương xác định Ban cán sự đảng Bộ Lao động Thương binh Xã hội đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo. Hậu quả là Bộ và một số tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong tham mưu, thực hiện cơ chế, chính sách về lĩnh vực đào tạo dạy nghề; trong thực hiện các gói thầu do Công ty Cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC) và các doanh nghiệp trong hệ sinh thái AIC thực hiện.
Những vi phạm này đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề, "gây hậu quả nghiêm trọng, khó khắc phục; nguy cơ thiệt hại, lãng phí rất lớn tiền, tài sản của Nhà nước và nguồn nhân lực xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và cơ quan quản lý nhà nước, đến mức phải xem xét, xử lý kỷ luật".
Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận trách nhiệm đối với những vi phạm nêu trên thuộc về Ban cán sự đảng Bộ Lao động Thương binh Xã hội các nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021. Cá nhân cùng chịu trách nhiệm là Bộ trưởng Đào Ngọc Dung và nguyên Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền.
Cùng chịu trách nhiệm còn có các nguyên Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Phi, Huỳnh Văn Tí, Doãn Mậu Diệp, Lê Quân; nguyên Tổng cục trưởng Dạy nghề Nguyễn Tiến Dũng; nguyên Tổng cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp Dương Đức Lân, Nguyễn Hồng Minh; Tổng cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp Trương Anh Dũng; Vụ trưởng Kế hoạch Tài chính Phạm Quang Phụng.
Ông Đào Ngọc Dung 62 tuổi, quê huyện Lý Nhân, Hà Nam; Ủy viên Trung ương Đảng bốn khóa liên tiếp từ 10 đến 13; Đại biểu Quốc hội hai khóa 14, 15. Ông Dung từng làm Bí thư Tỉnh đoàn Nam Hà (cũ), Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, Bí thư Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương nhiệm kỳ 2011-2015. Ông giữ chức Bộ trưởng Lao động Thương binh Xã hội từ tháng 4/2016.
Nguồn: [Link nguồn]Nguồn: [Link nguồn]
Theo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung "vi phạm đến mức phải xem xét kỷ luật" do liên quan đến sai phạm của AIC.
Quê hương danh tướng Trần Quang Diệu ở đâu?
Rải rác trên nhiều nguồn tài liệu, đến nay có 3 nguồn thông tin về quê hương của Trần Quang Diệu: Bình Ðịnh, Quảng Ngãi, Ðà Nẵng. Vậy, đâu mới thật sự là quê hương của Trần Quang Diệu?
Mộ Trần Quang Diệu ở An Hải (Đà Nẵng).
Tạp chí Xưa & Nay số 517 đăng bài “Họ Trần ở Hoài Ân với danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu” của nhà nghiên cứu (NNC) Đặng Quý Địch. Bài viết có một số nội dung chính sau:
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, nhà thơ Quách Tấn đã đến thôn Vạn Hội, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân gặp ông Trần Sử (Tộc trưởng họ Trần và là người giữ bộ gia phả họ Trần) và năm 1965 đã biên soạn sách “Nước non Bình Định”, trong đó viết: “Mộ nằm trong ấp Vạn Hội thuộc xã Ân Tín. Trên một nấm gò cao trước mộ, dựng một tấm bia xây bằng đá, mặt khắc chìm bốn đại tự Trần Gia Tổ Cơ. Đó là ngôi tổ mộ của Trần Quang Diệu”.
Đến năm 2011, ông Trần Văn Qui ở thôn Vạn Hội 2, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tự nhận là hậu duệ danh tướng Trần Quang Diệu, mang tập Trần Tộc Gia Phả bằng chữ Hán đến nhờ NNC Đặng Quý Địch dịch. Theo gia phả, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765), hậu duệ họ Trần là Trần Văn Tuấn vào cư ngụ ở Bồng Sơn - Hoài Nhơn và là đời thứ 1 họ Trần ở Vạn Hội. Cụ Trần Văn Tuấn từng giữ chức Hàn Lâm Tri chế cáo, sau thăng Đại Tư Mã. Cụ Tuấn sinh 6 con trai, 3 con gái, lập 4 phái nam thuộc đời thứ 2. Thân tộc họ Trần ở Vạn Hội từ đời thứ 1 đến đời thứ 5 có nhiều người làm quan dưới thời các chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn, từ Gia Long đến Thành Thái…
Đáng chú ý tại tờ 8a của gia phả ghi: “Con trai út của ông Thượng thư Bộ binh Trần Văn Tuấn là ông cố họ Trần, tên kiêng cữ là Điện, là nhà Nho lánh đời, không làm quan… Sinh hạ một trai là Trần Văn Kê”. Ông Trần Văn Qui cho NNC Đặng Quý Địch biết: Các bậc trưởng lão họ Trần xưa nay ở Vạn Hội mật truyền rằng, cụ Trần Văn Điện chính là danh tướng Trần Quang Diệu nhưng ghi là Điện, nhằm che giấu để con trai (Trần Văn Kê) khỏi bị Gia Long giết…
Bia mộ Trần Gia Tổ Sơn ở Ân Tín, Hoài Ân.
Những câu hỏi cần được làm sáng tỏ
Qua bài viết “Họ Trần ở Hoài Ân với danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu”, chúng tôi thấy cần làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
1- Đọc lại sách “Nước non Bình Định” của Quách Tấn, chúng tôi không thấy có dòng nào tác giả cho biết đã gặp ông tộc trưởng Trần Sử. Bên cạnh đó, 4 chữ khắc trên tấm bia của “ngôi mộ tổ họ Trần” ở Vạn Hội được tác giả Quách Tấn ghi là Trần Gia Tổ Sơn (không phải là Trần Gia Tổ Cơ như bài báo đã dẫn). Đáng lưu ý, tác giả Quách Tấn cho biết: “Nhà Tây Sơn bị diệt, nhà Nguyễn lên ngôi Cửu Ngũ. Nhà họ Trần sợ, đốt hết giấy tờ thời trước. Tập gia phả phái họ Trần Bình Định do đó cũng thành mây”… Điều đó chứng tỏ, Quách Tấn chưa hề gặp ông Trần Sử và cũng chưa hề được xem tập Trần Tộc Gia Phả…
2- Theo NNC Đặng Quý Địch, bộ gia phả họ Trần ở Vạn Hội được soạn vào năm Thành Thái thứ 4 (1892) và người soạn bộ gia phả là ông Trần Văn Huệ, nguyên Tri châu Hoài Ân (?). Thế nhưng, trang 5b của gia phả lại có đoạn: “Ngụ quán của ông Trần Văn Tuấn là ấp Vạn Hội huyện Bồng Sơn… Mộ ông tại thôn Vạn Hội I. Trước mộ có bia đá khắc bốn đại tự Trần Gia Tổ Cơ. Có Từ đường tại thôn Vạn Hội I do tộc trưởng Trần Sử giám phụng” (?). Như vậy, từ xa xưa đã có ông Trần Sử là tộc trưởng họ Trần ở Vạn Hội - Ân Tín, thì làm sao vào những năm 50 của thế kỷ XX lại có ông tộc trưởng Trần Sử để nhà thơ Quách Tấn “gặp” (?).
3- Theo ông Trần Văn Qui , “các bậc trưởng lão họ Trần ở Vạn Hội mật truyền cụ Trần Văn Điện có tên trong gia phả chính là danh tướng Trần Quang Diệu”. Điều này rất đáng hồ nghi, bởi theo chính sử, gia đình Trần Quang Diệu chỉ có duy nhất 1 người con gái và đã bị Gia Long cho voi quật chết. Ngược lại, theo gia phả, ông Trần Văn Điện chỉ có duy nhất 1 con trai (Trần Văn Kê) và không có con gái? Luận cứ để có thể cho rằng Trần Văn Điện chính là danh tướng Trần Quang Diệu rất mơ hồ.
4- Theo gia phả, hầu hết các “nhân vật” trong dòng họ Trần ở Vạn Hội đều theo phò nhà Nguyễn và đều giữ những cương vị quan trọng (?). Vậy sao tên tuổi của các “nhân vật” trên không thấy sử sách ghi nhận? Một gia đình phụng sự nhà Nguyễn mà lại có một danh tướng như Trần Quang Diệu, chẳng lẽ Gia Long và các triều đại nhà Nguyễn lại không biết? Tại sao họ Trần ở Vạn Hội có một “phần tử đối nghịch” như Trần Quang Diệu mà các “nhân vật” trong dòng họ là cha, anh ruột vẫn được nhà Nguyễn trọng dụng?
5- Ngoài những tồn nghi trên, bộ gia phả còn bộc lộ khá nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn, theo gia phả, từ thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, ông Trần Văn Tuấn đã giữ chức Hàn Lâm tri chế cáo, rồi thăng đến Đại Tư mã (?). Nhưng trong quan chế nhà Nguyễn không có chức danh này, mà chỉ có ở triều Tây Sơn. Một chi tiết cũng đáng nghi ngại là việc ông Trần Văn Bạt, sau khi chết trận được tặng Thị Độc học sĩ (một chức dành cho quan văn)?
Các nhà khoa học nên nghiên cứu thêm
Từ những cứ liệu ở trên có thể đặt dấu hỏi lớn về việc họ Trần ở Ân Tín cho rằng “nhân vật” Trần Văn Điện chính là danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Thật ra, năm 1987, GS - TSKH Vũ Minh Giang đã về Vạn Hội và cả thôn Tú Sơn, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi để khảo cứu. Từ chuyến khảo cứu này, GS Vũ Minh Giang xác định: Trần Quang Diệu quê ở thôn Kim Giao, xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi). Dòng họ này đến đời thứ 4 thì dời đến Tú Sơn- Đức Lân khai khẩn, sinh cơ lập nghiệp. Họ Trần ở Kim Giao và Tú Sơn thường xuyên qua lại và cùng thờ Trần Quang Diệu.
Đáng lưu ý, đầu năm 1996, Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng ra thông báo: “Danh tướng Trần Quang Diệu là người ở làng An Hải (trước thuộc huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam), nay thuộc quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng. Thông báo trên dựa trên bộ gia phả do con cháu Trần Quang Diệu ở An Hải, Đà Nẵng lưu giữ. Thậm chí, tại đây có cả mộ của Trần Quang Diệu.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, thông tin về quê hương danh tướng Trần Quang Diệu ở An Hải, Đà Nẵng vẫn còn nhiều điểm tồn nghi. Chẳng hạn như các thông tin: Trần Quang Diệu tên thật là Trần Văn Đạt, sinh năm 1760; con trai út tên là Trần Văn Long (vì lẩn tránh nhà Nguyễn nên đổi thành Nguyễn Văn Quang)… Theo nhiều nguồn sử liệu thì Trần Quang Diệu sinh năm 1746 và năm 1773 đã tham gia đánh thành Quy Nhơn. Vậy, nếu Trần Quang Diệu sinh năm 1760, không lẽ khi đánh thành Quy Nhơn Trần Quang Diệu mới 13 tuổi?
Như vậy, đến nay, có 3 nguồn thông tin về quê hương của danh tướng Trần Quang Diệu: Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng. Vậy, đâu mới thật sự là quê hương của danh tướng Trần Quang Diệu? Câu hỏi này cần được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu để khẳng định.
Ông Đào Ngọc Dung - Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH nhấn mạnh khi báo cáo giải trình, tiếp thu một số vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm tại phiên thảo luận ở Hội trường chiều 17/6 về dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi).
Người đứng đầu ngành LĐ-TB-XH cho biết, Luật hiện hành từ khi ra đời đã từng bước đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực. Hàng năm có khoảng hơn 100.000 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Hiện có 580.000 người đang lao động ở 43 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Nhấn mạnh đây là lĩnh vực thời gian được quan tâm nên phát triển tương đối nhanh, ông Đào Ngọc Dung dẫn số liệu cho thấy Philippines coi đây là ngành công nghiệp, đào tạo cơ bản, bình quân đưa đi lao động 1 triệu người/1 năm với nguồn thu bình quân cho ngân sách khoảng 20 tỷ USD. Việt Nam khoảng 5 tỷ USD và tỉnh cao nhất xấp xỉ 300 triệu USD/1 năm.
Về thị trường, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH cho biết những thị trường truyền thống tiếp tục được duy trì như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Chúng ta cũng mở được một số thị trường mới như Đức, Ba Lan, Rumania và gần đây là Hungaria.
Một trong những hạn chế được chỉ ra từ đầu nhiệm kỳ là tình trạng lao động bỏ trốn ở lại bất hợp pháp cũng được cải thiện. Như thị trường Hàn Quốc, với nhiều giải pháp được hai bên thực hiện thì tỷ lệ bỏ trốn từ 56% đến nay còn 24%, thấp hơn so với cam kết với nước bạn là 30% và thấp hơn nhiều quốc gia.
Tuy vậy, theo ông Đào Ngọc Dung, vẫn còn nhiều thách thức, yếu kém, nhất là tình trạng môi giới bất hợp páp, vi phạm hợp đồng, nhiều trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng hình ảnh Việt Nam, đối với huyện nghèo có quan tâm nhưng số lượng lao động được đưa đi không nhiều...
Nhấn mạnh Bộ cùng các địa phương thời gian qua có nhiều sự chấn chỉnh, người đứng đầu ngành LĐ-TB-XH cho biết đã xử phạt tới 118 doanh nghiệp trong tổng số 459 doanh nghiệp. Do đó, tình hình có nhiều tiến bộ.
Về hình thức, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết hiện nay các hình thức: Lao động đi qua doanh nghiệp được cấp giấy phép của Bộ; đi qua doanh nghiệp trúng thầu nhận công trình ở nước ngoài; qua doanh nghiệp và cá nhân tổ chức đàu tư ra nước ngoài; theo hợp đồng lao động tự do được giao kết hợp đồng và đăng ký với cơ quan quản lý lao động địa phương.
Đề cập lao động ở nước ngoài thông qua kỳ nghỉ, ông Đào Ngọc Dung nhấn mạnh phải đưa vào luật và hiện đang thí điểm ở thị trường Australia. Năm 2020 có 1.500 trường hợp được đi, đăng ký qua Bộ và sau khi được Sứ quán ở Australia nhất trí thì quá trình du lịch mới được lao động, khác với việc ai đó sang nước bạn rồi mới tìm kiếm việc làm.
Một hình thức mới xuất hiện cách đây 2 năm là giữa các địa phương của Việt Nam với địa phương ở nước khác hợp tác lao động ngắn hạn và hết thời vụ thì trở về. UBND tỉnh ký kết thì phải có cơ quan đứng ra giúp UBND tỉnh là đơn vị sự nghiệp, chính là Trung tâm Lao động trực thuộc tỉnh hay thuộc Sở LĐ-TB-XH và đây không phải pháp nhân mới. Đơn vị này tương đương như đơn vị sự nghiêp công lập ở bộ ngành mà luật cho phép.
“Về bản chất, ngoài 5 loại hình trên thì không bị luật này chi phối vì nguyên tắc là phải có hợp đồng. Nếu không theo hợp đồng là như bất hợp pháp, ví dụ như 39 người gặp nạn ở Anh” – ông Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, đồng thời cho biết Ban soạn thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu về chính sách, nhất là với lao động sau khi từ nước ngoài về, thời hạn giấy phép, tiêu chuẩn thành lập doanh nghiệp...
“Chúng tôi muốn Quốc hội ủng hộ từ nay trở đi không dùng khái niệm “xuất khẩu lao động” mà sử dụng từ trong luật này để điều chỉnh. Ngoài ra, Luật quy định rõ không có sự tham gia của nước ngoài, không có đóng góp cổ phần, góp vốn, sở hữu hay đứng pháp nhân lĩnh vực này” – Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nói./.